Luận Giải Sao Tứ Hóa: Khoa – Quyền – Lộc – Kỵ

Trong Lá Số Tử Vi, Tứ Hóa lấy theo thứ tự Xuân (Lộc), Hạ (Quyền), Thu (Khoa), Đông (Kỵ), không thể xem là các tinh diệu, mà là các sự biến hóa. Lộc Quyền Khoa Kỵ đều có chữ Hóa ở trước. Hóa là chuyển biến, chuyển động, chuyển hóa. Cho nên từ Hóa không thể xem là một tinh diệu và từ Hóa chỉ là hiện tượng biến hóa. Tỉ dụ Liêm Trinh đứng với Hóa Lộc, thì Hóa Lộc có thể làm biến hóa khí chất của Liêm Trinh.

Cũng như năng lượng Mặt Trời ra bốn mùa xuân hạ thu đông. Từ Hóa lấy thứ tự Xuân Hạ Thu Dông vì vậy chúng ta đi theo thứ tự Lộc, Quyền, Khoa, Kỵ, không thể đặt ngược lại Kỵ Khoa Quyền Lộc.

Luận bàn về sao Hóa Lộc

Hóa Lộc thuộc Mộc tượng trưng cho sự sinh sôi nảy nở của Mùa Xuân. Xuân – tượng vạn vật đều phát triển, tươi tốt, nên Hóa Lộc cũng mang tính hài hòa, tiêu đi những tranh chấp và chế hóa tai nạn. “Hóa Lộc, thực Lộc bất khuyết, phát triển thuận lợi”, vì vậy nên đặc tính cơ bản của Hóa Lộc là “phát triển”. Người có Hóa Lộc không nhất định là thông tuệ, không nhất thiết là tài hoa, nhưng nhất định phải là khả năng phát triển hài hòa. Hóa Lộc thuộc Mộc ví như mùa Xuân hướng ra khắp bốn phía mà phát triển. Xuân là mùa sinh sôi nảy nở, vậy thì Hóa Lộc tượng trưng mùa Xuân thì cũng sinh sôi nẩy nở.

Luận bàn về sao Hóa Quyền

Hóa Quyền thuộc Hỏa đới Thổ, ví như Mùa Hè, như lửa bốc. Mùa Hè ngũ hành thuộc Hỏa. Hóa Quyền thuộc Hỏa đới Thổ ví như mùa Hè, tính chất mãnh liệt như lửa bốc. Mùa Hè Ngũ hành thuộc Hỏa, vạn vật đến Hè thì xanh tốt thịnh vượng.

Mùa Xuân mới chỉ là mầm mống, nếu không đủ sức sống tất nhiên bị đào thải, còn tồn tại tức là sinh phải mạnh. Bởi thế Hóa Quyền chủ về tự tin và làm việc đắc lực. Làm việc đắc lực đi đôi với vất vả gian khổ cho nên Hóa Quyền cũng tượng trưng cho tình trạng vất vả chiến đấu. Ngoài ra Hóa Quyền đôi lúc trở thành tự phụ vì tự tín tâm quá cao.

Mùa Hè ánh nắng chói chang, quang minh do đó tính tình Hóa Quyền chính trực. Hỏa chủ Lễ cho nên Hóa Quyền đối xử tỏ ra lịch lãm khuôn phép, tuy nhiên cũng lại dễ xúc động.

Luận bàn về sao Hóa Khoa

Hóa Khoa thuộc Kim, Thu là mùa của thâu liễu với ý nghĩa nội liễm hàm súc mang ý vị văn chương và trí tuệ, tài hoa tiềm ẩn mà không lộ bởi vậy nên tâm cơ không gian trá.

Hóa Khoa tượng thu Kim trong Ngũ thường là chữ Nghĩa. Bởi vậy người có Hóa Khoa thường liêm khiết, một lòng một dạ, khuynh hướng bảo thủ nên ít khi hoạnh phát, nhưng được kính nể.

Luận bàn về sao Hóa Kỵ

Hóa Kỵ trong Ngũ hành là Thủy, tượng về sự tuyệt diệt của vạn vật trong thời kỳ phải ẩn tàng. Hóa Kỵ ví như mùa Đông bề ngoài cây cối trơ trụi nhưng bên trong là sức sống mãnh liệt để tạo biến đổi, thay thế đợi mùa Xuân tới bung ra. Hóa Kỵ là lúc phải chịu cuộc thanh toán triệt để, thoát thai hoán cốt. Vì phải biến hóa nên thông minh liên sảo.

Mùa Đông Ngũ hành thuộc Thủy. Thủy chủ về Trí tuệ. Mùa Đông chủ về ẩn tàng. Trí tuệ mà ẩn tàng thì ý nghĩ khó đoán ra, bởi vậy người Hóa Kỵ thường hay mưu mô, đôi lúc gian trá, đầu óc quyền biến vô thường. Thủy chủ động nên thường xuyên xoay chuyển, xoay chuyển quá độ thành ra bội phản.

Lấy lá số tử vi

Giới tính
Chọn lịch
Lựa chọn thêm


Tác giả: chuongnv

Luận Giải Sao Tứ Hóa: Khoa – Quyền – Lộc – Kỵ

Trong Lá Số Tử Vi, Tứ Hóa lấy theo thứ tự Xuân (Lộc), Hạ (Quyền), Thu (Khoa), Đông (Kỵ), không thể xem là các tinh diệu, mà là các sự biến hóa. Lộc Quyền Khoa Kỵ đều có chữ Hóa ở trước. Hóa là chuyển biến, chuyển động, chuyển hóa. Cho nên từ Hóa không thể xem là một tinh diệu và từ Hóa chỉ là hiện tượng biến hóa. Tỉ dụ Liêm Trinh đứng với Hóa Lộc, thì Hóa Lộc có thể làm biến hóa khí chất của Liêm Trinh.

Cũng như năng lượng Mặt Trời ra bốn mùa xuân hạ thu đông. Từ Hóa lấy thứ tự Xuân Hạ Thu Dông vì vậy chúng ta đi theo thứ tự Lộc, Quyền, Khoa, Kỵ, không thể đặt ngược lại Kỵ Khoa Quyền Lộc.

Luận bàn về sao Hóa Lộc

Hóa Lộc thuộc Mộc tượng trưng cho sự sinh sôi nảy nở của Mùa Xuân. Xuân – tượng vạn vật đều phát triển, tươi tốt, nên Hóa Lộc cũng mang tính hài hòa, tiêu đi những tranh chấp và chế hóa tai nạn. “Hóa Lộc, thực Lộc bất khuyết, phát triển thuận lợi”, vì vậy nên đặc tính cơ bản của Hóa Lộc là “phát triển”. Người có Hóa Lộc không nhất định là thông tuệ, không nhất thiết là tài hoa, nhưng nhất định phải là khả năng phát triển hài hòa. Hóa Lộc thuộc Mộc ví như mùa Xuân hướng ra khắp bốn phía mà phát triển. Xuân là mùa sinh sôi nảy nở, vậy thì Hóa Lộc tượng trưng mùa Xuân thì cũng sinh sôi nẩy nở.

Luận bàn về sao Hóa Quyền

Hóa Quyền thuộc Hỏa đới Thổ, ví như Mùa Hè, như lửa bốc. Mùa Hè ngũ hành thuộc Hỏa. Hóa Quyền thuộc Hỏa đới Thổ ví như mùa Hè, tính chất mãnh liệt như lửa bốc. Mùa Hè Ngũ hành thuộc Hỏa, vạn vật đến Hè thì xanh tốt thịnh vượng.

Mùa Xuân mới chỉ là mầm mống, nếu không đủ sức sống tất nhiên bị đào thải, còn tồn tại tức là sinh phải mạnh. Bởi thế Hóa Quyền chủ về tự tin và làm việc đắc lực. Làm việc đắc lực đi đôi với vất vả gian khổ cho nên Hóa Quyền cũng tượng trưng cho tình trạng vất vả chiến đấu. Ngoài ra Hóa Quyền đôi lúc trở thành tự phụ vì tự tín tâm quá cao.

Mùa Hè ánh nắng chói chang, quang minh do đó tính tình Hóa Quyền chính trực. Hỏa chủ Lễ cho nên Hóa Quyền đối xử tỏ ra lịch lãm khuôn phép, tuy nhiên cũng lại dễ xúc động.

Luận bàn về sao Hóa Khoa

Hóa Khoa thuộc Kim, Thu là mùa của thâu liễu với ý nghĩa nội liễm hàm súc mang ý vị văn chương và trí tuệ, tài hoa tiềm ẩn mà không lộ bởi vậy nên tâm cơ không gian trá.

Hóa Khoa tượng thu Kim trong Ngũ thường là chữ Nghĩa. Bởi vậy người có Hóa Khoa thường liêm khiết, một lòng một dạ, khuynh hướng bảo thủ nên ít khi hoạnh phát, nhưng được kính nể.

Luận bàn về sao Hóa Kỵ

Hóa Kỵ trong Ngũ hành là Thủy, tượng về sự tuyệt diệt của vạn vật trong thời kỳ phải ẩn tàng. Hóa Kỵ ví như mùa Đông bề ngoài cây cối trơ trụi nhưng bên trong là sức sống mãnh liệt để tạo biến đổi, thay thế đợi mùa Xuân tới bung ra. Hóa Kỵ là lúc phải chịu cuộc thanh toán triệt để, thoát thai hoán cốt. Vì phải biến hóa nên thông minh liên sảo.

Mùa Đông Ngũ hành thuộc Thủy. Thủy chủ về Trí tuệ. Mùa Đông chủ về ẩn tàng. Trí tuệ mà ẩn tàng thì ý nghĩ khó đoán ra, bởi vậy người Hóa Kỵ thường hay mưu mô, đôi lúc gian trá, đầu óc quyền biến vô thường. Thủy chủ động nên thường xuyên xoay chuyển, xoay chuyển quá độ thành ra bội phản.

Tác Động Của Sao Hóa Khoa Tới Các Chủ Tinh

Vũ Khúc là tài tinh chủ về hành động tìm đến với tiền bạc cho nên khi gặp Khoa để hoá với hai đặc điểm:

Nổi danh về ngành nghề, khả năng nào đó rồi qua sự nổi danh ấy mà kiếm tiền.
Nếu tự tay kinh doanh thì đã nổi tiếng với một hai vụ làm ăn rồi từ đấy có đà phát triển.

Nói tóm lại Vũ Khúc – Hoá Khoa kể là cách danh lợi song thâu. Nhưng danh ở Vũ – Khoa khác với danh ở Cơ – Khoa, Thái Dương – Hoá Khoa hay Tử Vi – Hoá Khoa không phải danh trên văn chương, trên thế lực mà là cái danh của thực tế kiếm tiền.

Nếu Vũ – Quyền gặp Liêm – Lộc thường qua danh mà thâu lợi bất ngờ. Đã Vũ Khúc – Hoá Khoa thì đương nhiên Thái Dương đứng với Hoá Kỵ (như người tuổi Giáp tứ Hoá an theo tuần tự: Liêm, Phá, Vũ, Dương). Người xưa thâm ý muốn nhắn bảo phải cẩn thận khi đi vào vận Thái Dương – Hoá Kỵ, danh cao bổng hậu mà người oán ghét ắt tai họa cũng gần chứ không xa.

Vũ Khúc – Tham Lang đồng cung mà Vũ Khúc đứng bên Hoá Khoa cùng lúc lại có cả Linh hay Hoả thì hoạnh phát mau hơn, nhưng cũng lại vì dương danh vô lối mà thất bại chóng hơn.

Các nhà Tử Vi Trung Quốc chủ trương Vũ Khúc – Hoá Khoa nên thành công qua nghề chuyên môn hơn là xông vào doanh thương, đỡ kẻ thù đỡ kẻ ghét.

Vũ Khúc – Hoá Khoa đóng Thê, vợ đoạt quyền chồng nhưng đồng thời cũng phù trợ chồng chứ không đoạt quyền để lăng loàn. Vũ – Khoa đóng Tử Tức không đông con và có nhiều khả năng con hai dòng nhưng con cái đa năng.

Vũ Khúc đơn độc đóng Phụ Mẫu dễ xung khắc với cha mẹ. Nhưng có Hoá Khoa không những bớt khắc mà còn sinh trưởng từ một gia đình uy danh. Cung Tật có Vũ – Khoa gặp Hoả Tinh phải con chừng phôỉ nhiệt, khí quản viêm.
Tác động của Hóa Khoa – Tử Vi

Tử Vi rất hợp với Hoá Khoa, nếu cả Thiên Phủ đứng cùng càng hay vì khi có Thiên Phủ tất nhiêu phải kèm Thiên Tướng như vậy kể là tạm đủ văn võ triều đình.

Ở trường hợp không có Phủ, Tướng mà lại thấy tứ sát Hình, Hao hội tụ thì Hoá Khoa vô dụng. Tuy nhiên về mặt học vấn vẫn xem là con người có học, ít nhiều đến với khoa bảng.

Tử Vi – Hoá Khoa đứng với Xương – Khúc, Khôi – Việt, Long – Phượng thì đa tài, đa nghệ theo đuổi một ngành nghề khả dĩ nổi danh.

Tử Vi – Hoá Khoa có một điểm dở là bạn hữu, phần lớn Tử Vi – Hoá Khoa đi với nhau ở cung Nô thường xấu. Ví dụ Tử Vi – Hoá Khoa đóng Tí, cung Nô Bộc có Thái Âm ở Tỵ đứng cùng Hoá Kỵ: không bao giờ được sự đắc lực của thủ hạ hay bạn bè.

Cung Nô cũng gây ảnh hưởng luôn với cung Huynh Đệ. Như Vậy Tử – Khoa không có thể cộng tác với ai, cộng tác chỉ bị thiệt. Trường hợp sinh ban đêm hay Thái Âm đắc địa sẽ giảm những khó khăn trên. Ví dụ số nữ mà Tử Vi đóng Ngọ cung, Thái Âm ở Hợi đứng với Hoá Kỵ mà lại sinh ban đêm thì thuộc hạ bằng hữu thật hữu dụng.

Tử Vi – Hoá Khoa tính tình khoan hậu, nhưng tính này lại rất dễ biến thành chủ quan, yêu ghét giận mừng một cách chủ quan khiến cho lòng khoan hậu vì thiên tư mà đâm phiền, có khi lại thành đố kỵ.

Cho nên Tử – Khoa nếu vào vận Hình Sát sẽ đưa đến tình trạng hoài tài bất ngộ, vào vận hanh thông lại dễ bị đố kỵ. Thà đừng Hoá Khoa cuộc sống yên hơn.

Các cung lục thân mà Tử Vi – Hoá Khoa đều kể làm tốt. Ví dụ cung Huynh Đệ có Tử – Khoa: anh em ruột thịt nâng đỡ nhau, vào Phụ Mẫu: được cha mẹ che chở, vào Thê cung: dễ gặp vợ hơn tuổi nhưng đảm đang, vào cung Nô Bộc mà thấy cả văn tinh thì tài năng kém thuộc hạ, cần phải biết sử dụng khéo tinh tế này mới hay. Tử – Khoa đóng Tật Ách phải săn sóc hệ thống bài tiết nhất là nhiếp hộ tuyến.
Tác động của Hóa Khoa – Thái Dương

Thái Dương bản chất là tán phát nên không thật thoải mái với Hoá Khoa. Hoá Khoa làm tăng thêm tính tán phát đó cho nên dễ thành ra tiếng nhiều mà miếng ít. Bị người chú ý quá mức dù là ngưỡng vọng thì cũng phiền. Như quẻ dịch gọi bằng “Khang long hữu hối” là thế.

Thái Dương miếu địa đứng với Hoá Khoa không bằng đứng với Lộc, Quyền trên thực tế thâu hoạch tốt. Thái Dương – Hoá Khoa cũng cần bách quan tề tựu mới thành đại sự, nếu chỉ gặp Sát Hình là hư danh hư lợi thôi, có khi còn bị thiên hạ lợi dụng nữa.

Nói về bách quan tề tựu cũng có hai hình thức khác biệt. Thái Dương – Hoá Khoa: nhất định là nổi danh, người đời chú ý từ cử chỉ đến lời nói nếu được văn tình Xương – Khúc chế giảm tục khí ngôn hành văn nhã, thiếu văn tinh sẽ thô lỗ, ấu tả cho người đời đàm tiếu. Thái Dương hãm địa hoặc bị Tuần, Triệt sự ấu tả đậm nét hơn.

Có Xương Khúc rồi thêm Lộc Tồn càng đẹp. Cách Dương – Lương – Xương – Lộc đóng vào Mão tốt nhất, trường hợp này Hoá Khoa sẽ đắc lực hơn Quyền – Lộc nếu vào học thuật văn chương, nhưng lại không thành giầu có.

Thái Dương – Hoá Khoa chỉ thành phú cách nếu xung chiếu bởi Hoá Quyền và cung Quan Lộc có Hoá Lộc. Được Thiên Mã, Tả – Hữu sẽ rất sớm thành công nếu như không bị Hoả – Linh, Không – Kiếp.

Dương – Khoa có Cự Môn đứng cùng hay chiếu, ăn nói lý luận cứng cỏi vào ngành ngoại giao hay pháp luật hợp cách. Thái Dương – Hoá Khoa ở hãm cung mà bị Không – Kiếp sẽ vì danh vọng hão mà mang họa vào thân.

Dương – Khoa đóng cung lục thân đều hay trừ cung Nô Bộc. Dương – Khoa đóng Huynh Đệ, Phu Thê, Phụ Mẫu: những người thân ấy đều có thanh vọng. Đóng vào Nô Bộc: thuộc hạ sẽ lợi dụng danh mình hoặc tựa vào mình và vượt trội lên hơn mình.

Dương – Khoa vào lục thân cung nếu bị Đà La, Không – Kiếp lại thành ra bị lục thân bóc lột. Thái Dương – Hoá Khoa đóng Tật Ách: dễ bị bệnh ở can (gan), khí nhiệt uất bốc lên mặt làm thành bệnh mắt.
Tác động của Hóa Khoa – Thiên Cơ

Thiên Cơ bản tính phù động, đứng với Hoá Khoa tính năng động ấy sẽ thành kế hoạch, giỏi về giao tế, thuyết phục thiên hạ. Khoa đi với Cơ tốt hơn Lộc đi với Cơ.

Khoa – Cơ luôn luôn đeo đẳng một điểm phiền là gặp Hoá Kỵ đứng với Cự Môn (Người tuổi Đinh Tứ Hoá an theo thứ tự Âm, Đồng, Cơ, Cự).

Cự – Kỵ đương nhiên không tuyệt đối thành cặp hung thần, nếu không bị hung sát tinh khác. Hễ có hung sát tinh hội tụ để giúp Cự – Kỵ lập tức sinh phiền nhiễu do vạ miệng, do những lời phê bình sắc bén mà gây thù oán, ảnh hưởng cho công việc làm.

Thiên Cơ – Hoá Khoa càng thông tuệ. Có điều Thiên Cơ đa học nhưng lại bất chuyên. Bởi vậy Cơ – Khoa ít hy vọng thành một chuyên gia thật giỏi. Cơ – Khoa sẽ chịu ảnh hưởng nhiều từ Cự – Kỵ khi vận đi xuống. Bởi thế Cơ – Khoa lúc đắc thời đắc thế cần thận trọng.

Ông Vương Đình Chi đưa ra lập luận sau đây: “Thiên Cơ đóng Mệnh rất ngại sao Thiên Lương đóng Phúc Đức (đó là cách Cự – Cơ Mão Dậu đấy) sẽ đưa đến tình trạng tự thị thông minh mà rơi vào lầm lẫn to tát, khiến cho khả năng Quyền thành hư nguỵ, hoặc ra con người khinh bạc khó thành đại sự”.

Cơ – Khoa đóng Huynh Đệ, anh em bất hoà thường trực, hoặc bằng mặt mà chẳng bằng lòng, anh em cộng tác với nhau mà mỗi người lại tính toán riêng. Thà không hoá Khoa còn hơn. Có Hoá Khoa vào Huynh Đệ không chỉ ảnh hưởng đến anh em mà còn ảnh hưởng đến cả bè bạn. Có Hoá Khoa tóm lại khó lòng gặp người cộng tác trung thực.

Cung Tật Ách thấy Cơ – Khoa can Hỏa vượng thịnh, khó ngủ vì tâm thận bất giao do sự hun nóng của lá gan đưa đến thần kinh suy nhược.
Tác động của Hóa Khoa – Văn Xương

Xương – Khúc tuy là phụ tinh nhưng cũng dự phần vào chuyện an Tứ Hoá. Một phụ tinh nữa dự phần Tứ Hoá là Hữu Bật. Xương Khúc chủ văn chương nên gặp Khoá kể như hữu lý.

Thời xưa do khoa cử mà nên công danh (dĩ nhiên cũng không thiếu gì người ta dị lộ mà công danh). Bởi vậy khi chuyển vào số thì chủ trương Mệnh hay Thê cung mà có Xương – Khoa rất đáng mừng. Vận gặp Xương Khúc – Hoá Khoa cũng thuận lợi cho công danh.

Đời bây giờ Xương – Khoa không còn sức mạnh để đạt công danh như ngày trước, chỉ xem là dành được phần khoa bảng thôi.

Văn Xương chủ về văn thư khế ước. Viết sách nổi tiếng, hoặc có văn bằng mà thành danh giả. Xương – Khoa – Lộc đi cùng khả dĩ nhờ một khế ước mà có tiền.

Xương – Khoa cần có thêm Tấu Thư mới dễ nêu cao danh vọng. Xương – Khoa cũng là dấu báo của một tin vui. Xương – Khoa là con người giỏi thích ứng với cuộc sống, yêu đời.

Xương – Khoa vào vận hạn hay các cung lục thân mà gặp nhiều hung sát tinh thì lại không tiếp tục mang tính chất mừng vui hỉ khánh nữa mà có thể tang lễ. Tại sao? Vì Xương – Khoa chủ về lễ nhạc kèn trống tế lễ.

Thê cung thấy Xương – Khoa đi cùng Đào Hoa vào cổ thời là con người ưa lấy vợ lẽ thiếp hầu, ở thời này thường xẩy ra những cuộc tình ngoại hôn. Xương – Khoa vào cung Tật Ách mà có Hoả hay Linh thì bệnh tật để lại vết sẹo, như giải phẫu hoặc nám da.
Tác động của Hóa Khoa – Thiên Lương

Thiên Lương chủ quý nên cần gặp Hoá Khoa để mà danh dự. Cơ – Lương đi cặp đứng cùng Hoá Khoa là con người quản trị giỏi. Thiên Lương – Hoá Lộc dễ được người tin cậy.
Cách Cơ – Cự – Đồng – Lương được Hoá Khoa: là một cán bộ hành chánh cừ khôi hoặc là loại chuyên viên có hạng; cao thấp còn tuỳ sao Bản Mệnh.

Lương – Khoa trên tính tình là con người tự ái, chuộng nghĩa khinh tài. Lương – Khoa mà gặp Văn Khúc, Hoá Kỵ đồi xung thì sức lực bị giảm hẳn, gây thù chuốc oán vì cái tính bới lông tìm vết, xét nét tiểu tiết nhỏ nhặt.

Lương – Khoa có Tấu Thư học vào ngành viết diễn văn, làm đổng lý phụ tá đắc lực. Lương – Khoa đi cùng Thiên Đức, Giải thần học thuốc dễ thành công.

Thiên Lương, Thiên Đồng hễ có Hoá Khoa thì không sợ thấy Thiên Mã, không có Khoa chỉ có Thiên Mã thôi thì Đồng Lương sẽ ra lãng đãng, bông lông.

Thiên Lương, Thiên Đồng hễ có Thiên Mã thành con người giao du rộng rãi “tứ hải văn danh”. Ngay cả Thiên Lương Tỵ/ Hợi mà được Khoa cũng giảm bớt chất phiêu bồng, thêm Khôi – Việt nữa thì qua cơn phiêu lãng, trải nhiều kinh hiểm khả dĩ nên công. Lương Tỵ/ Hợi vào Thê cung: dù có Khoa cũng vẫn không đẹp.

Lương – Khoa đóng Phụ Mẫu hay Tử Tức đều tốt. Được ân đức cha mẹ và con cái thành đạt. Thiên Lương đóng Tật Ách gặp Không – Kiếp dễ bị tê thấp đau nhức, có Hoá Khoa càng nặng.

Nữ Mệnh Thiên Lương – Hoá Khoa đóng Tật Ách gặp Linh – Hoả bị lưu sản, bệnh lộn xộn đường kinh. Từ trước tới giờ người ta nghĩ Hoá Khoa vào Tật Ách là giải hết bệnh hoạn điều này qua kinh nghiệm không hoàn toàn đúng.
Tác động của Hóa Khoa – Thái Âm

Thái Âm là tài tinh, khi đã hoá thành Khoa khiến cho tài nguyên thuận lợi. Thái Âm – Hoá Khoa vào kinh doanh hợp cách, dễ tạo thành danh cho công việc kinh doanh mà sinh lợi. Ví dụ một tiệm ăn nổi tiếng, tiệm quần áo nổi tiếng…

Thái Âm khác với Thái Dương ở điểm: Thái Dương trải ánh sáng đi, tán quang trong khi Thái Âm lại liễm ánh sáng tới. Bởi thế nên sự thành danh cũng khác với thành danh của Thái Dương. Thái Dương mở rộng ra quần chúng, Thái Âm lại cần hạn hẹp với lợi ích bản thân.

Thái Âm – Hoá Khoa tạo tính lạc quan, dễ sống, thích hưởng thụ, Thái Âm – Hoá

Khoa đóng Phúc Đức: niệm sống thoải mái với hưởng thụ nhân sinh. Do đó mới có luận cứ rằng: Âm – Khoa đóng Mệnh đắc địa không hay bằng đóng Phúc Đức về mặt nhàn nhã hưởng thụ. Vì Âm – Khoa ở Mệnh thì cung Phúc Đức có Cự Môn thường đưa đến tình trạng đam tâm thái quá, dễ mệt mỏi tinh thần.

Âm – Khoa vào Tài Bạch cung thì cung Mệnh sẽ là sao Thiên Lương thủ. Tiền bạc không do tự tay mình tung hoành mà nhờ thanh vọng chức tước sẵn có để hướng bổng lộc. Thái Âm đóng hãm cung mà có Hoá Khoa càng vô duyên với những vụ đầu tư, hãy theo đuổi chức nghiệp thì hơn.

Thái Âm hãm đứng với Hoá Khoa ở Tật Ách chủ về bệnh âm hư. Âm – Khoa đắc địa vào cung lục thân Phụ Mẫu, Tử Tức xem là tốt đẹp kể luôn cả Thê cung, nhưng nếu lạc hãm thì ngược lại.
Tác động của Hóa Khoa – Văn Khúc

Xương hay Khúc đều là văn tinh cho nên đương nhiên cần Hoá Khoa. Thời xưa cho rằng Văn Khúc không bằng Văn Xương vì Văn Khúc mang khuynh hướng dị lộ công danh. Văn Khúc – Hoá Khoa cùng với Ân Quang, Thiên Quý tốt hơn Văn Khúc chỉ với một mình Hoá Khoa, như vậy mới thành cách “Ân Khoa”. Cách này dễ được đề bạt vào chức vị.

Văn Khúc sao có tài ăn nói nếu gặp Cự Môn, Hoá Lộc thì nói ra tiền, hoặc vì giỏi ngôn từ mà được người đời tin cậy. Văn Khúc cũng chủ về thụât số đứng với Khoa và Cơ – Âm: học về thuật số khả dĩ nổi danh.

Văn Khúc – Hoá Khoa chịu ảnh hưởng nhiều từ các sao mà chúng đứng cùng. Ví dụ Tử Vi, Thất Sát không ưa Văn Khúc, Hoá Khoa lắm. Tử – Sát chủ về quyền lực, đôi khi còn làm trở ngại cho khả năng quyết đoán.

Vũ Khúc có thể cần Văn Khúc thôi, nhưng không cần Văn Khúc với Hoá Khoa vì Khoa chen vào tạo thành mâu thuẫn đáng lẽ cần tham, quyết liệt thì là dùng dằng mà hỏng việc. Nhưng Thiên Cơ, Thiên Lương thì tuyệt đối cần Văn Khúc, Hoá Khoa. Cơ – Lương có được Khúc, Khoa: thanh vọng tăng lên. Nhưng đồng thời cũng mang một khuyết điểm là nhiều lý thuyết hơn hành động.

Cự Môn – Hoá Lộc đứng với Văn Khúc – Hóa Khoa: tài ăn nói hơn người với điều kiện đừng có Sát Kỵ tinh. Gặp Sát Kỵ sẽ bị họa do ngộ từ. So Xương với Khúc thì Văn Xương thiên về tư tưởng, Văn Khúc ngả về hành động. Văn Xương khi suy tư rất sáng, nhưng vào hành động lại vụng về, trong khi Văn Khúc suy tính không tinh sảo, nhưng hành động đắc lực.

Khúc – Khoa vào cung Phúc Đức: ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc đời. Khúc – Khoa đóng Mệnh mà Thê cung lại thấy Văn Xương, Hoá Kỵ thì trước khi có vợ đã có thiếp. Nữ Mệnh mà như thế lúc lấy chồng không còn là con gái nữa. Nó không rõ rệt như Tham – Đào nhưng là ngấm ngầm.
Tác động của Hóa Khoa – Thiên Phủ

Thiên Phủ ưa nhất Lộc. Khoa đối với Phủ chi là thứ yếu. Thiên Phủ thiếu Lộc mà gặp cả sát sinh như Triệt, Tuần, Linh, Hoả, Không, Kiếp sách gọi bằng : “Phú khố không lộ” (kho thủng, kho không cửa ngõ). Khoa vào chẳng giúp ích được gì.

Thiên Phủ – Hoá Khoa không bị sát tinh là người quản thủ tiền bạc giỏi. Thiên Phủ – Hoá Khoa gặp sát tinh nên học một nghề cho tinh để vinh thân.

Phủ – Khoa thành một cách đặc biệt nếu gặp Thiên Riêu đứng bên. Hễ có Riêu thì không sợ các sát tinh. Thêm sát tinh lại càng tốt, biến ra con người nhiều mưu chước kinh doanh tài chánh, hoàn cảnh càng biến hoá càng lên cao. Phủ – Khoa – Riêu không sát tinh thì chỉ là người gây được tín nhiệm của thiên hạ nhưng coi chừng tư tâm người này quá lớn.

Tử Vi – Thiên Phủ đồng cung hoặc đối xung thì Thiên Phủ – Hoá Khoa kể làm tốt nhất là với người tuổi Nhâm vì còn hội thêm với Quyền Lộc. Phủ – Khoa trong trường hợp trên đem lại khả năng lãnh đạo và được người tin cậy miễn đừng thấy Hoá Kỵ đứng bên Vũ Khúc. Có Vũ – Kỵ biến ra lý tưởng quá mức mà đưa đến không tưởng.

Phủ – Khoa đóng lục thân, có thể tin cậy trong mọi công việc làm ăn. Ví dụ vào cung Huynh Đệ hãy cộng tác với anh em ruột thịt. Phủ – Khoa đóng Thê cung hay Phu cung luận đoán phức tạp hơn. Vì Phủ ở Thê thì Mệnh là Tham Lang. Phủ – Khoa như vậy người phối ngẫu sẽ chỉ phúc hậu với điều kiện hơn tuổi (vợ già hay chồng già). Phủ – Khoa gặp Sát tinh đóng Tật Ách thường bị bệnh ở bộ phận tiêu hoá (dạ dày, ruột).

Ý Nghĩa Các Sao Chính Tinh Đóng Tại Cung Nô Bộc

Sao Tử Vi đóng cung Nô Bộc

Tử Vi thủ Cung Nô Bộc, sao quá mạnh, trong các tình hình thông thường. Chủ về khó khống chế người dưới quyền.
Nếu Tử Vi nhập miếu, còn có các sao phụ tá Tả Phù, Hữu Bật đồng độ hoặc hội chiếu, thì Tử Vi càng mạnh, trong việc giao du với những người ngang vai tuy chủ về có thể có bạn bè hữu ích. Nhưng bạn bè ắt sẽ hơn đương số, còn người dưới quyền thì sẽ khó khống chế.

Nhưng nếu đương số có bụng dạ rộng rãi, dìu dắt, giúp đỡ hậu bối, thì có thể cải thiện mối quan hệ giao tiếp. Còn được bạn bè và những người thuộc lớp vãn bối ủng hộ.

Nếu Sao Tử Vi lạc hãm, không có sao phụ tá cát hội chiếu. Chủ về vẻ hào nhoáng bề ngoài, có thể nhiều bạn bè, nhưng lại ít tri kỉ. Hoặc tuy kết giao được những người có địa vị xã hội, nhưng mối quan hệ lại không thân tình. Cũng chủ về có nhiều người dưới quyền, nhưng họ đều có chủ kiến riêng.

Tử Vi rất ghét có Phá Quân hội chiếu ở Cung Nô Bộc. Nếu có Phá Quân hội chiếu, lại gặp thêm Địa Không và Địa Kiếp. Thì chủ về bị thuộc cấp làm liên lụy, hoặc vì bạn bè mà phá tài.

Nếu Tử Vi đã gặp Phá Quân, còn gặp thêm Đà La. Thì chủ về đương số vì thuộc cấp mà ra mặt nên dẫn đến bất hòa, tranh chấp thị phi.

Nếu Tử Vi có Tứ Sát tinh hội chiếu. Chủ về thuộc cấp dễ làm lỡ việc. Về phương diện giao du, khó có bạn bè hữu ích, dễ gần với tiểu nhân, hoặc bị người có địa vị hãm hại.

Tử Vi nếu tương hội với Hóa Kỵ và Kình Dương, thì thuộc cấp bạc tình vô nghĩa, được đương số dìu dắt giúp đỡ nhưng quay lại báo oán, hoặc bị họ bán đứng, về phương diện giao du. Chủ về cố sức giúp người nhưng lại bị báo oán.

“Tử Vi Phá Quân” đồng độ. Chủ về người dưới quyền vô tình vô nghĩa, làm cho đương số bị tổn thương, sự nghiệp bị đả kích, tiền tài tổn thất, hoặc địa vị bị dao động, về phương diện bạn bè. Chủ về được bạn bè nói lời ngay thẳng khuyên can, nhưng nếu có sát tinh hội chiếu thì chủ về vì bạn mà phá tài. Nếu có các sao Sát, Kỵ, hình, hao cùng chiếu, thì vì bạn bè hoặc người dưới quyền làm liên lụy mà dính vào họa phạm pháp.

Nhưng nếu có cát tinh hội hợp, thì nhờ bạn bè tốt mà được lợi ích. Người dưới quyền tuy vô tình vô nghĩa, nhưng vì có nhiều người dưới quyền nên cũng có một thời kỳ trở thành trợ lực. Hoặc chủ về gặp cơ hội được người có địa vị xã hội chiếu cố, nhưng mối quan hệ dễ trở thành lạnh nhạt.

  • “Tử Vi Thiên Phủ” đồng độ, trong tình huống thông thường chủ về có thể kết giao với người có địa vị xã hội. Người dưới quyền nhiều, nhưng ý kiến bất nhất. Nếu Tử Vi Hóa Quyền, Hóa Khoa, thì người dưới quyền phần nhiều có chủ kiến riêng, có thể trở thành trợ thủ đắc lực, nếu tiến hành dìu dắt giúp đỡ, thì tương lai có thể trở thành bạn bè hữu ích.
    • Nếu Thiên Phủ Hóa Khoa thì không nên gặp thêm Lộc Tồn đồng cung. Chủ về người dưới quyền tuy có thể giữ tiền, nhưng lại không giỏi kinh doanh, chỉ có thể thủ thành.
    • Nếu có thêm sát tinh tụ tập thì chủ về oán hận. Hoặc chủ về người dưới quyền có âm mưu.
    • Nếu gặp thêm Địa Không, Địa Kiếp, Đại Hao, thì vì bạn mà phá tài, hoặc bị người dưới quyền trộm cắp.
    • Nếu gặp Vũ Khúc Hóa Kỵ. Thì chủ về cấp trên của đương số bị người dưới quyền của đương số lừa gạt.
    • Nếu gặp Liêm Trinh Hóa Kỵ, thì bị người dưới quyền mà bản thân đương số đề bạt làm liên lụy.
  • “Tử Vi Tham Lang” đồng độ. Chủ về giao du rộng. Nếu có Tả Phù, Hữu Bật, Thiên Khôi, Thiên Việt, Thiên Vu, Ân Quang, Thiên Quý, Thiên Phúc hội chiếu, thì đến đâu cũng có bạn bè hoan nghênh. Nếu gặp Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa thì nhờ tài phú, quyền lực, hoặc danh dự mà được bạn bè ủng hộ.
    • Nếu gặp các sao đào hoa, lại gặp thêm Đà La, Âm Sát. Thì chủ về bị bạn bè hãm hại, hoặc người dưới quyền làm liên lụy. Hoặc vì giao du với những người ở chốn gió trăng mà chuốc điều tiếng thị phi. Nếu có Lộc Tồn đồng độ mà gặp sát tinh. Chủ về tranh chấp tiền bạc với bạn bè, hoặc bạn bè có nhiều tiền mà keo kiệt, bủn xỉn.
  • “Tử Vi Thiên Tướng” đồng độ. Chủ về người dưới quyền và bạn bè đều có trợ lực. Nếu gặp sao cát và cát hóa hội chiếu. Chủ về được người có địa vị dìu dắt, giúp đỡ, trợ lực. Phần nhiều là bạn bè tốt, hoặc bạn bè và người dưới quyền phần nhiều là người có chính nghĩa. Nhưng nếu gặp sát tinh, thì chủ về vì bạn bè hoặc người dưới quyền mà phá tài.
    • Nếu gặp thêm Địa Không, Địa Kiếp, Đại Hao. Thì chủ về chịu lỗi thay cho người khác. Có Tứ Sát tinh, Thiên Hình, Đại Hao hội chiếu, phần nhiều vì giao du với bạn xấu mà hao tổn, hoặc bị người dưới quyền trộm cắp.
  • Tử Vi rất ngại có Thất Sát đồng độ. Chủ về bị bạn bè và người dưới quyền bài xích, chèn ép, dù gặp cát tinh cũng chủ về bị tước đoạt tiền bạc hoặc quyền lực. Gặp thêm Địa Không, Địa Kiếp, Thiên Hình, Đại Hao. Thì chủ về bạn bè và người dưới quyền lấy oán báo ân. Có Hỏa Tinh, Thiên Hình đồng độ, thì bạn bè và người dưới quyền phần nhiều là người cứng rắn, thô bạo.

Sao Thiên Cơ đóng cung Nô Bộc

Khi Sao Thiên Cơ thủ Cung Nô Bộc, gặp sao cát. Chủ về giao du rộng, nhập miếu cũng vậy. Tuy người dưới quyền tốt nhưng lại dễ thay đổi theo thời thế, làm trợ thủ đắc lực không được bền. Bạn bè cũng có lúc thay đổi Đời người tuy không cô tịch, nhưng khó được người dưới quyền trợ lực lâu dài.

Nếu lạc hãm, hoặc hội sát tinh, thì bạn bè tuy nhiều, nhưng kết oán cũng nhiều. Số người dưới quyền lưu động khá lớn, và thường mang trong lòng sự bất mãn.

Lấy tính chất của sát tinh để phân biệt. Kình Dương và Đà La đồng độ, thông thường chủ về bị bạn bè hoặc người dưới quyền làm liên lụy. Gặp thêm Thiên Hình, chủ về bị hãm hại. Hỏa Tinh và Linh Tinh đồng độ, chủ về có nhiều tranh đoạt.

Nếu Thiên Cơ Hóa Lộc thì vì tiền mà xảy ra tranh đoạt. Gặp Địa Không, Địa Kiếp, Đại Hao. Chủ về vì theo bạn mà phá tài, hoặc vì thay đổi người dưới quyền mà tổn hao tiền bạc, hoặc vì tranh chấp mà phá tán hao tài.

Thiên Cơ Hóa Lộc gặp sát tinh. Chủ về vì bạn mà hao tán tiền bạc. Có thêm Hóa Kỵ, Thiên Hình hội hợp. Chủ về có tranh chấp, kiện tụng với bạn bè hoặc người dưới quyền.

  • “Thiên Cơ Thái Âm” đồng độ, nếu nhập miếu thì giao du rộng. Nếu lạc hãm thì đề phòng bạn bè hoặc người dưới quyền âm mưu. Nếu gặp Thiên Đồng Hóa Lộc. Chủ về có nhiều người dưới quyền. Cung Nô Bộc đồng thời gặp thêm sát tinh thì nên đề phòng người dưới quyền xâm phạm. Gặp thêm Thiên Hình. Chủ về bị thuộc cấp làm liên lụy.
  • “Thiên Cơ Cự Môn” đồng độ, trong các tình hình thông thường chủ về có điều tiếng thị phi với bạn bè một cách vô vị. Hoặc dù có lòng khoan hậu nhưng vẫn bị người dưới quyền oán trách, cũng chủ về giao du với những người sốc nổi, không thiết thực.

Cự Môn Hóa Kỵ, càng không nên gặp Thiên Hình, nếu gặp thì vì tranh chấp mà dẫn đến điều tiếng hay phạm pháp. Gặp sát tinh Kình Dương, Đà La chủ về bị liên lụy, tranh cãi ồn ào. Gặp Hỏa Tinh, Linh Tinh chủ về bị hãm hại. Gặp Địa Không, Địa Kiếp. Chủ về vì tranh hơn thua mà phá tài.

  • “Thiên Cơ Thiên Lương” đồng độ. Chủ về có thể kết giao với bạn bè hữu ích, bạn bè tốt, nhưng quan hệ hữu nghị không lâu dài. Nếu gặp sao cát thì được bạn bè trợ lực. Hoặc chủ về người dưới quyền có tính thẳng thắn, nhưng vẫn luôn thay đổi thuộc cấp.

Vì vậy nếu Cung Nô Bộc gặp Thiên Cơ và Thiên Lương đồng độ, cần phải khéo léo xử sự với người dưới quyền, mới có thể xoay chuyển vận thế tiên thiên. Nếu mệnh có Lộc Tồn đồng độ thì nên chú ý điều chỉnh cách đãi ngộ thuộc cấp.

  • Gặp các sao Sát, Kỵ, Hình, thì vì bạn bè hoặc người dưới quyền mà bị liên lụy, hoặc dẫn đến phạm pháp.
  • Nếu gặp thêm Địa Không, Địa Kiếp, Đại Hao, thì vì bị liên lụy hoặc phạm pháp mà phá tài. Nhưng nếu có sao cát hội hợp thì chỉ là một phen hú vía.

Sao Thái Dương đóng cung Nô Bộc

Thái Dương ở Cung Nô Bộc, trong tình hình thông thường đều chủ về bị bạn bè hoặc người dưới quyền oán trách. Nếu các sao của Cung Phụ Mẫu không cát tường, lại chủ về có lúc bị cấp trên đòi hỏi, trách phạt. Đây là vì Thái Dương mang ánh sáng và nhiệt công hiến khắp nơi, muôn vật nhờ vậy mà được ích lợi, nhưng muôn vật không những không báo đáp Thái Dương, mà thường thường lại oán trách Thái Dương.

Nếu Thái Dương Hóa Kỵ, thì tình hình thuật ở trên càng nặng, thường phải chịu lỗi thay cho người khác.

  • Nếu Thái Dương có Cự Môn hội chiếu, Cự Môn Hóa Kỵ, thì càng nhiều tranh chấp oan uổng, thậm chí vì người dưới quyền mà ra mặt, rồi bị cả cấp trên lẫn những người dưới quyền khác oán trách. Vì vậy, nếu Cung Nô Bộc có tổ hợp các sao này, đương số cần phải thành thật công bố, tuyệt đối không đứng về phe nào hoặc không để bị cuốn vào vòng tranh chấp.

Ví dụ như đại diện cho người thuộc cấp đòi hỏi phúc lợi, hoặc đại diện cho ông chủ để hòa giải yêu sách của thuộc cấp, thảy đều không nên.

Thái Dương hội Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Khôi, Thiên Việt, Tả Phù, Hữu Bật, nếu Thái Dương nhập miếu, thì có thể được bạn bè trợ lực, mà bạn bè còn hào sảng, người dưới quyền cũng có nhiều trợ lực, nhưng tính chất bị oán trách, đòi hỏi vẫn không thay đổi. Nếu hội Tứ Sát tinh, Địa Không, Địa Kiếp, người dưới quyền ắt sẽ lấy oán báo ân.

Đạo hóa giải là kiên trì nguyên tắc, đặt định trước các nguyên tắc chế độ rồi giao cho một người phụ trách chấp hành, còn bản thân cố gắng đứng bên ngoài.

  • “Thái Dương Thái Âm” là tổ hợp cát lợi nhất của Thái Dương ở Cung Nô Bộc. Chủ về duyên với người khá tốt, có lúc được bạn bè hữu ích hay người dưới quyền trợ lực khá nhiều. Chỉ trường hợp hội các sao Sát, Hình, mới có tính chất bị người dưới quyền hay bạn bè oán trách. Hoặc bị cấp trên trách phạt, nhưng duyên với người vẫn tốt. Thái Dương Hóa Kỵ chủ về thị phi. Thái Dương Hóa Kỵ mà gặp Kình Dương, Đà La, thì nên đề phòng người dưới quyền có âm mưu.
  • Thái Dương và Cự Môn đồng độ. Chủ về điều tiếng thị phi, gặp sát tinh thì càng bất lợi, như đã thuật ở trên. Nhưng nếu Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, thì có bạn bè giỏi biện luận, giỏi ăn nói. Hoặc bạn bè phần nhiều ở trong giới pháp luật và giới quảng bá. Chỉ giao du với những người có nghề nghiệp như vậy mới có thể thay đổi tính chất thị phi, bị oán trách.
  • “Thái Dương Thiên Lương” đồng độ, phần nhiều chủ về giao du với các nhân vật trong chính giới hoặc người nổi tiếng trong xã hội.
    • Nhưng nếu gặp Kình Dương, Thiên Hình, Đại Hao. Thì chủ về vì giao du mà phá tán hao tài, thậm chí phạm pháp.
    • Nếu gặp Thiên Khôi, Thiên Việt, Tả Phù, Hữu Bật, Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, thì có bạn bè chính trực hoặc người dưới quyền trung thành. Còn nhờ bạn bè mà được ích lợi, được trợ lực của người dưới quyền, nhưng vẫn chủ về bị bạn bè hoặc người dưới quyền oán trách.
    • Vì vậy, Cung Nô Bộc mà gặp các sao này, tối kỵ vì bạn bè mà bị cuốn vào vòng tranh chấp, nhất là trường hợp Thái Dương lạc hãm ở cung Dậu.

Sao Vũ Khúc đóng cung Nô Bộc

Sao Vũ Khúc nhập Cung Nô Bộc, trong các tình hình thông thường đều chủ về ít bạn bè, người dưới quyền không nhiều, duyên với người cũng kém. Nếu hội Tả Phù, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc, và Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, mới chủ về nhiều bạn bè và người dưới quyền có trợ lực, nhưng vẫn khó được lòng bạn bè hoặc được lòng người dưới quyền.

Vũ Khúc ở sáu cung Tí, Ngọ, Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, thủ Cung Nô Bộc, chủ về giao du rộng. Tức là ba tinh hệ “Vũ Khúc Thiên Phủ”, “Vũ Khúc Tham Lang”, Vũ Khúc đối nhau với Tham Lang. Nhưng tổ hợp Vũ Khúc và Tham Lang phần nhiều là bạn tửu sắc, cho nên chỉ còn “Vũ Khúc Thiên Phủ” ở hai cung Tí hoặc Ngọ, mới chủ về có nhiều bạn bè hữu ích.

  • Vũ Khúc Hóa Lộc ở cung Nô Bộc, cần phải gặp Tả Phụ, Hữu Bật mới chủ về người dưới quyền đắc lực.;Nếu không có Tả Phụ, Hữu Bật, sẽ chủ về vì bạn bè hay người dưới quyền mà phải bôn ba, lao tâm khổ tứ, hao tổn tinh thần.
  • Nếu Vũ Khúc Hóa Kỵ, sẽ chủ về bị người dưới quyền xâm phạm, bị bạn bè lợi dụng, hoặc vì bạn bè người dưới quyền gây lụy mà gây nên tổn thất.

Vũ Khúc Hóa Kỵ, đồng độ với Hỏa Tinh, Linh Tinh, chủ về bị bạn bè hay người dưới quyền bán đứng. Đồng độ với Kình Dương, Đà La, chủ về gặp nhiều trắc trở, tranh chấp, phản bội, gặp thêm Địa Không, Địa Kiếp thì hao tổn rất nặng.

Chỉ trong tình hình “Vũ Khúc, Thiên Phủ” đồng độ, gặp sao lộc (cũng không nên có Lộc Tồn đồng độ), lại gặp thêm cát tinh thì mới chủ về giao du rộng, còn nhận thêm nhiều trợ giúp.

“Vũ Khúc Thiên Phủ” thủ cung Nô Bộc, mà Thiên Phủ là “kho lộ”, “kho trống”. Chủ về vì bạn bè hay người dưới quyền phá tài.

“Vũ Khúc Tham Lang” thủ cung Nô Bộc thì có nhiềụ bạn bè ăn uống, tiệc tùng. Đồng cung với các sao đào hoa thì càng nặng. Nếu gặp thêm các sao sát, kị, hình, hao, không, kiếp, thì vì vậy mà chuốc họa, hoặc bị kiện tụng, phạm pháp.

“Vũ Khúc Tham Lang” đồng độ với Hỏa Tinh, Linh Tinh, thì giao du với bạn bè trước nồng ấm sau nguội lạnh, thậm chí còn có kết cục rất xấu, gặp sát tinh, thì càng nặng.

“Vũ Khúc Tham Lang” thủ cung Nô Bộc, mà Tham Lang Hóa Kỵ, cũng chủ về bị chiếm đoạt. Nếu Tham Lang Hóa Lộc, thì không nên gặp các sao đào hoa và Văn Xương, Văn Khúc, nếu không, sẽ có nhiều bạn tửu sắc. Nếu gặp cát tinh, thì chủ về được trợ giúp và gặp cơ hội là nhờ ăn uống, tiệc tùng.

“Vũ Khúc Thiên Tướng” thủ cung Nô Bộc, gặp “Hình kỵ giáp ấn”, sẽ chủ về bị bạn bè hay người dưới quyền bán đứng, còn bị uy hiếp.

“Vũ Khúc Thiên Tướng” thủ cung Nô Bộc, mà “Tài ấm giáp ấn”, chủ về bạn bè có thể giúp cho cơ hội, trong số thuộc cấp dưới quyền có người thành thực, có thể phụ giúp trong sự nghiệp.

“Vũ Khúc Thiên Tướng” không ưa Vũ Khúc Hóa Kỵ, chủ về bị gây lụy, cũng không ưa hội Liêm Trinh Hóa Kỵ, chủ về tranh chấp tiền bạc, hay bị người dưới quyền xâm phạm.

“Vũ Khúc Thiên Tướng” hội Thiên Phủ là “kho lộ”, “kho trống”, chủ yề vì bạn mà phá tài, hoặc vì bạn bè và người dưới quyền
mà ra mặt, dẫn đến tự chuốc thị phi. Nếu Thiên Phủ là “kho phủ đầy ắp”, không những giao du rộng, mà còn được trợ giúp mạnh mẽ.

“Vũ Khúc Thất Sát” không nên có sát tinh đồng độ, chủ về bị bạn bè hay người dưới quyền bán đứng.

“Vũ Khúc Thất Sát” gặp Liêm Trinh Hóa Lộc, chủ về được trợ giúp, nhưng không lâu dài. Tham Lang Hóa Lộc, sẽ chủ về tình cảm trước nồng ấm sau nguội lạnh, gặp Phá Quân Hóa Lộc, thì trợ giúp lúc có lúc không. Nếu Phá Quân Hóa Kỵ, thì có kết cục rất xấu.

“Vũ Khúc Thất Sát”, mà Vũ Khúc Hóa Kỵ, bị Hỏa Tinh và Linh Tinh giáp cung, chủ về vì bạn bè hay người dưới quyền mà sự nghiệp thất bại.

“Vũ Khúc Phá Quân” nếu không Hóa Lộc, chủ về có bạn bè hay người dưới quyền khẩu thị tâm phi. Gặp các sao sát, kị, hình, hao, không, kiếp thì bị gây lụy mà hao tài, nặng thì dẫn đến thất bại.

Hễ Vũ Khúc tọa cung Nô Bộc, tính chất cơ bản là bất lợi, giao du không rộng, người dưới quyền vô lực. Nhưng nếu gặp Thiên Phủ đồng độ hoặc vây chiếu thì giao du nhiều, nhưng vẫn không đắc lực. Gặp cát tinh, thì có thể có hai ba người bạn tri giao hoặc có trợ lực. Nếu gặp các sao sát, kị, thì chủ về bị gây lụy, hoặc bị xâm phạm.’

Sao Thiên Đồng đóng cung Nô Bộc

Sao Thiên Đồng thủ Cung Nô Bộc. Chủ về giao du rộng mà không câu nệ người ở tầng lớp nào. Nếu gặp đủ Tả Phù, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Khôi, Thiên Việt, càng chủ về giao du khắp ngũ hổ tứ hải. về phương diện người dưới quyền, cũng chủ về nhiều mà còn đắc lực.

Nếu Thiên Đồng lạc hãm, thì trong số bạn bè hoặc người dưới quyền có nhiều người muôn hãm hại đương số, bạn bè hữu ích hoặc có thể trợ giúp đương số lại rất ít.

Thiên Đồng ưa hội chiếu với Thái Âm hoặc Thiên Lương. Chủ về có bạn bè hữu ích, bạn bè tốt, người dưới quyền có thể trợ lực, hoặc cương nghị thẳng thắn.

Thiên Đồng không ưa hội chiếu với Cự Môn. Chủ về dễ bị bạn bè hoặc người dưới quyền hiểu lầm.

Thiên Đồng lạc hãm lại gặp Kình Dương, Đà La. Chủ về bị bạn bè làm liên lụy, hoặc người dưới quyền hãm hại. Nhập miếu thì chỉ chủ về bất hòa, hoặc người dưới quyền không có trợ lực.

Thiên Đồng lạc hãm mà gặp Hỏa Tinh, Linh Tinh. Chủ về bị bạn bè giận, hoặc va chạm, xung đột với người dưới quyền. Nhập miếu thì mức độ giảm nhẹ.

Thiên Đồng lạc hãm, tương hội với Địa Không, Địa Kiếp. Chủ về vì bạn bè hoặc người dưới quyền mà phá tài. Gặp thêm Kình Dương, Đà La, Thiên Hình, Âm Sát, thì bị làm liên lụy nên dính dáng đến pháp luật, gây nên phá tán hao tài.

  • “Thiên Đồng Thái Âm” đồng độ, trong các tình hình thông thường đều chủ về có bạn bè hữu ích, hoặc người dưới quyền có nhiều trợ lực. Nhưng nếu gặp đủ Tứ Sát tinh, còn gặp thêm Thiên Hư, Âm Sát, thì vì bạn bè mà bị hại hoặc người dưới quyền có âm mưu, nên cẩn thận đề phòng.
  • “Thiên Đồng Thiên Lương” đồng độ. Chủ về có nhiều bạn bè chính trực, hoặc người dưới quyền trung thành thủ phận. Nếu gặp đủ Tứ Sát tinh, hình, hao, lại gặp thêm Âm Sát, Phỉ Liêm, thì dễ bị thuộc cấp hãm hại, dẫn đến kiện tụng. Gặp Địa Không, Địa Kiếp thì chủ về phá tán hao tài.
  • Thiên Đồng và Cự Môn. Chủ về có nhiều hiểu lầm với bạn bè hoặc người dưới quyền, hoặc trở mặt thành thù. Thiên Đồng và Cự Môn hội chiếu với Kình Dương, Đà La thì càng nhiều thị phi tranh chấp, kiện tụng. Thiên Đồng và Cự Môn gặp Địa Không, Địa Kiếp, Âm Sát, thì vì bạn bè hoặc người dưới quyền mà phá tài.

Nếu gặp đủ Tứ Sát tinh, các sao Hình, Kỵ, Hào. Chủ về giao du thì nhiều, nhưng chỉ là bạn bè qua đường. Người dưới quyền tuy nhiều, nhưng chỉ là trên danh nghĩa, đời người không tránh được cô tịch.

Sao Liêm Trinh đóng cung Nô Bộc

Liêm Trinh ở Cung Nô Bộc. Chủ về nhiều bạn bè hoặc người dưới quyền, nhưng chưa chắc có trợ lực, cần phải xem là nhập miếu hay lạc hãm và các sao nào hội chiếu để luận đoán.

Liêm Trinh ở Cung Nô Bộc rất thích gặp sao Lộc, bất kể là Lộc Tồn hay Hóa Lộc. Đều chủ về nhờ bạn bè trợ lực mà kiếm được tiền, hoặc nhờ người dưới quyền mà kiếm tiền. Dù Liêm Trinh lạc hãm, cũng chỉ giảm bớt mà thôi.

Nhưng nếu Liêm Trinh Hóa Kỵ mà lạc hãm, còn gặp sát tinh, thì trái lại sẽ chủ về vì bạn mà phá tài. Nếu Liêm Trinh hội Văn Khúc Hóa Kỵ. Chủ về mượn tiền không trả. Hội Tham Lang, chủ về bị bạn bè hoặc người dưới quyền dụ dỗ, tham gia đầu cơ, cờ bạc mà dẫn đến phá tài. Nếu gặp thêm Hàm Trì, Đại Hao, Thiên Riêu, thì bị dụ dỗ, vì sắc mà phá tài.

  • Nếu Liêm Trinh có Phá Quân, Thất Sát hội chiếu, lại gặp Kình Dương, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh, Thiên Hình, Đại Hao, Địa Kiếp, Địa Không. Chủ về bị bạn bè hoặc người dưới quyền làm liên lụy mà phạm pháp. Nếu Liêm Trinh lại Hóa Kỵ, dễ xảy ra tai họa lao ngục. Gặp Âm Sát thì nên đề phòng người dưới quyền hãm hại.
  • “Liêm Trinh Thiên Tướng” đồng độ, nếu Liêm Trinh Hóa Lộc. Hoặc có Lộc Tồn đồng cung, lại được cát tinh ở tam phương tứ chính nâng đỡ. Chủ về nhờ được bạn bè trợ lực mà khá giả, hoặc người dưới quyền có thể giúp đương số kiếm tiền. Nếu Liêm Trinh Hóa Kỵ, dù gặp cát tinh cũng nên đề phòng bạn bè hoặc người dưới quyền. Tuy có thể trợ giúp đương số, nhưng cũng gây liên lụy mà phá tài.
  • “Liêm Trinh Thất Sát” đồng độ, bạn bè phần nhiều là người cứng rắn thô bạo, người dưới quyền không hợp với đương số. Liêm Trinh Hóa Kỵ, lại gặp sát tinh. Chủ về bị người dưới quyền ngầm xâm phạm. Nếu được Liêm Trinh Hóa Lộc, còn có Tả Phù, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Khôi, Thiên Việt cùng chiếu, thì càng ưa gặp Thiên Phủ Hóa Khoa ở Cung Huynh Đệ, lúc đó Liêm Trinh và Thất Sát mới biến thành khí tường hòa. Chủ về bạn bè và người dưới quyền tính tình cương nghị. Trường hợp Liêm Trinh Hóa Kỵ, mà không gặp các sao Sát, Hình, còn chủ về dễ kết giao với người trong quân đội hay cảnh sát và giới bác sĩ, thầy thuốc.
  • “Liêm Trinh Phá Quân” đồng độ ở Cung Nô Bộc, nếu hội sát tinh, thì dễ bị người dưới quyền phản bội. Hoặc bị bạn bè hãm hại hay trở mặt thành thù. Liêm Trinh và Phá Quân đồng độ ở Cung Nô Bộc, gặp Thiên Hình, Đại Hao, Địa Không, Địa Kiếp. Chủ về vì bạn bè mà dính dáng đến pháp luật. Nhưng có thể nhờ trợ lực của bậc trưởng bối hay cấp trên hóa giải.
  • “Liêm Trinh Thiên Phủ” đồng độ, nếu Thiên Phủ Hóa Khoa, thì tình bạn sâu sắc, người dưới quyền trung thành thẳng thắn. Liêm Trinh Hóa Lộc. Thì chủ về nhờ bạn bè hoặc người dưới quyền trợ lực mà gia vận hưng thịnh. Gặp cát tinh thì có bạn bè hoặc người dưới quyền ủng hộ, cũng chủ về sự nghiệp của cấp trên vững vàng, bản thân đương số nhờ vậy mà được cát lợi. Gặp Hóa Kỵ, sao hình, sát thì chủ về “ân biến thành thù”, hoặc người dưới quyền do mình đề bạt lại phản bội.

Sao Thiên Phủ đóng cung Nô Bộc

Thiên Phủ ở Cung Nô Bộc. Chủ về giao du rộng, nhưng nên thận trọng trong việc chọn bạn. Nhưng tính chất này khác với tính giao du rộng của Thiên Đồng, Thiên Đồng giao du không câu nệ địa vị xuất thân. Cũng không giống tính giao du rộng của Liêm Trinh, Liêm Trinh dễ giao du với bạn xấu.

Thiên Phủ thủ Cung Nô Bộc. Chủ về có nhiều người dưới quyền. Thiên Đồng cũng có nhiều người dưới quyền, nhưng những người dưới quyền này có cảm tình với đương số. Còn “nhiều người dưới quyền” của Liêm Trinh thì chủ về bản thân đương số dễ bị người dưới quyền kết thành bè đảng.

Hơn nữa, phần nhiều còn giao du ở phương diện sinh hoạt riêng tư. Còn Thiên Phủ thủ Cung Nô Bộc thì chủ về được người dưới quyền tôn trọng, xem bản thân đương số là bậc trưởng bối, cha chú.

Nếu Thiên Phủ Hóa Khoa, gặp Hóa Quyền hoặc được cát tinh hội chiếu, thì bạn bè và người dưới quyền đều trung thành.

Thiên Phủ thủ Cung Nô Bộc có Tứ Sát tinh đồng độ hoặc hội chiếu, thì bạn bè hoặc người dưới quyền tụ tán bất định, hoặc bị bạn bè ức hiếp, người dưới quyền làm nhục.

Nếu Thiên Phủ có Thiên Tướng lạc hãm vô lực hội chiếu, lại gặp thêm Địa Không, Địa Kiếp, các sao Sát, Hình, Kỵ, Hao. Chủ về bị bạn bè hoặc người dưới quyền âm mưu hãm hại, hoặc sang đoạt, trộm cắp tài vật.

Thiên Phủ độc tọa, đồng cung với Địa Không, Địa Kiếp, không có ác diệu khác hội hợp. Chủ về có bạn bè hoặc người dưới quyền vô tình vô nghĩa, bản thân đương số chân thành đối đãi với người nhưng cuối cùng chẳng được gì.

Sao Thái Âm đóng cung Nô Bộc

Khi Sao Thái Âm nhập miếu thủ Cung Nô Bộc. Chủ về có nhiều bạn bè hữu ích, cũng dễ được sự trợ lực của người dưới quyền. Nhưng không nên gặp Thiên Cơ hội chiếu, tuy cũng chủ về giao du rộng, có nhiều người dưới quyền, nhưng thay đổi luôn, khó được bạn bè thâm giao, cũng không bao giờ có trợ thủ đắc lực.

“Thái Âm Thái Dương” đồng độ, là người kết giao rộng, hào sảng, phung phí, có điều cũng chủ về tình cảm lúc hậu lúc bạc.
Thái Âm lạc hãm thủ Cung Nô Bộc, dễ giao du với bạn xấu, hoặc dễ tin lầm người dưới quyền, tiểu nhân. Có các ác diệu, sát hội hợp. Chủ về bị âm mưu hãm hại, xâm phạm.

Thái Âm gặp Địa Không, Địa Kiếp, Đại Hao chủ về vì bạn bè mà phá tài, hoặc vì thuộc cấp phạm sai lầm mà bản thân đương số phải chịu tổn thất.

Thái Âm gặp Kình Dương, Đà La, dễ vì bản thân đương số coi là tri kỉ nên bị hại, hoặc ban ân huệ cho người dưới quyền nhưng lại bị báo oán.

Thái Âm gặp Hỏa Tinh, Linh Tinh. Chủ về vì người mà vất vả.

Thái Âm gặp Thiên Hình đồng độ. Chủ về bị bạn bè hoặc người dưới quyền uy hiếp.

Thái Âm gặp Âm Sát, Thiên Vu. Chủ về bị bạn bè hoặc người dưới quyền ngầm gây tổn hại xâm phạm tiền bạc, hoặc người dưới quyền dèm pha với cấp trên của đương số.

Sao Tham Lang đóng cung Nô Bộc

Sao Tham Lang ở cung nô bộc thì đương số dễ có nhiều bạn bè bởi bản chất Tham Lang chủ về giao tiếp, giao du… , nên cần phải được cát hóa và có sao cát, mới chủ về hữu ích và có nhiều người dưới quyền, nếu không, chỉ là giao du sơ sơ.

Nếu Tham Lang có các sao đào hoa đồng độ, lại gặp Thiên Hư, Đại Hao, Thiên Diêu, Âm Sát, sẽ chủ về giao du với bạn bè tửu sắc, nhưng lúc gặp chuyện thì không giúp được gì cho đương số.

Tham Lang hội sao phụ, tá cát, lại gặp Thiên Vu, Ân Quang, Thiên Phúc, mới chủ về có bạn bè và người dưới quyền đắc lực. Gặp các sao phụ, tá đều là sao đôi, chủ về có nhiều bạn bè và người dưới quyền.

Tham Lang có sát tinh đồng độ, gặp các sao đào hoa, sẽ chủ về vì tửu sắc mà chuốc họa tai, thị phi. Nếu hội Hóa Kị, chủ về bị bạn bè hay người dưới quyền hãm hại, gây phiền phức. Gặp thêm Địa Không, Địa Kiếp thì vì vậy mà phá tài.

Tham Lang có cát hóa hội hợp, nhất là Tham Lang Hóa Lộc, sẽ chủ về được bạn bè hoan nghênh, người dưới quyền ủng hộ và yêu mến, nhưng chỉ giới hạn trong giao tình, mà không chủ về có quyền uy.

Tham Lang Hóa Kị ở cung nô bộc, chủ về bị bạn bè và người dưới quyền chiếm đoạt lợi ích, gặp thêm các sao đào hoa, Văn Xương, Văn Khúc, sẽ chủ về vì tửu sắc mà gây ra họa.

Tham Lang ở hai cung Tí hoặc Ngọ, có thể giao du với bạn bè hữu ích mà lớn tuổi. Nếu thành “Phiếm thủy đào hoa”, hoặc hội các sao đào hoa, chủ về có tình cảm với người dưới quyền.

Tham Lang ở hai cung Dần hoặc Thân, dễ giao du với bạn xấu, cần phải gặp các sao phụ, tá cát mới tránh được. Gặp sát tinh và Hóa Kị, chủ về bị người dưới quyền đoạt quyền.

Tham Lang ở hai cung Thìn hoặc Tuất, không có sao cát, chủ về người dưới quyền không nhờ cậy được, dễ có lòng xâm phạm lợi ích của đương số, gặp cát tinh thì người dưới quyền đắc lực.

“Hỏa Tham”, “Linh Tham”, chủ về người dưới quyền đột nhiên tăng lên nhiều.

Đến lưu niên Tham Lang ở cung nô bộc, Hóa Kị, gặp các sao sát, hao…thì nên đề phòng bạn bè hay người dưới quyền gây họa, gặp Bạch Hổ, Quan Phù … thì dễ bị kiện tụng.

Sao Cự Môn đóng cung Nô Bộc

Sao Cự Môn thủ Cung Nô Bộc, rất ưa Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, Lộc Tồn, Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Khôi, Thiên Việt, Tả Phù, Hữu Bật hội chiếu. Chủ về có bạn bè giỏi nói năng, giỏi biện luận, đa mưu túc trí, mà còn được bạn bè trợ lực. Người dưới quyền cũng có lòng trung thành, có thể giúp bản thân đương số làm cho gia vận hưng thịnh, sáng lập sự nghiệp.

Cự Môn rất ưa có Thái Dương đồng độ. Chủ về có bạn bè trượng nghĩa. Cổ nhân cho rằng “chủ có nghĩa tớ báo ơn” (chủ chiếu nghĩa bộc báo ân).

Nhưng các kết cấu tinh hệ vừa nói ở trên vẫn chủ về có điều tiếng, tranh cãi ồn ào với bạn bè hoặc người dưới quyền, có điều vì giao du với người tốt nên không đến nỗi trở mặt.

  • Trường hợp Cự Môn có Thiên Cơ đồng độ, thì bạn bè hoặc người dưới quyền phần nhiều là người sốc nổi, không thiết thực, khó xem là người tâm phúc.
  • Cự Môn có Thiên Đồng đồng độ. Chủ về nhiều điều tiếng thị phi, bạn bè và người dưới quyền trong lòng và lời nói bất nhất.

Nếu Cự Môn Hóa Kỵ, thì nhiềụ điều tiếng thị phi, sự tình rối bời, mà không có bạn bè hay người dưới quyền trợ lực. Nếu gặp thêm Tứ Sát tinh, thì bạn bè hoặc người dưới quyền bội tín, quên nghĩa. Gặp Âm Sát, Thiên Nguyệt. Chủ về âm mưu hãm hại, hoặc dùng lời ngon tiếng ngọt để lừa gạt. Nếu gặp thêm Địa Không, Địa Kiếp, Đại Hao, thì phá tài hao tổn, bị xâm phạm tài vật, hoặc bản thân bị tổn hại mới được lợi ích.

Sao Thiên Tướng đóng cung Nô Bộc

Thiên Tướng thủ Cung Nô Bộc, trong các tình hình thông thường có thể xem là sao tốt nhất, vì Thiên Tướng có lòng chính nghĩa, còn giàu nhiệt tâm, cho nên giao du với họ có thể giúp đương số làm cho gia vận hưng thịnh, là bạn bè chân chính. Có thể ra sức vì đương số, đồng thời cũng chủ về được người dưới quyền ủng hộ, trung thành, có thể trông cậy. Nếu gặp Tả Phù, Hữu Bật, cũng chủ về bản thân giao du rộng, hoặc có nhiều người dưới quyền.

Nếu gặp Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, Lộc Tồn hội chiếu chủ về bạn bè và người dưới quyền có thể trợ giúp đương số rất nhiều. Gặp thêm Tử Vi hội chiếu, thì chủ về có bạn bè tốt, có người dưới quyền giỏi giang, trung thành và ngay thắng. Gặp Thiên Phủ kèm sao cát hội chiếu. Chủ về bạn bè hoặc người dưới quyền chất phác, có trợ lực, lúc đương số bị khốn khó họ có thể ra tay giúp đỡ.

Thiên Tướng không nên đồng độ hoặc hội chiếu với Vũ Khúc. Chủ về có bạn bất tín bất nghĩa, cũng chủ về có người dưới quyền phản bội.

  • Thiên Tướng có Liêm Trinh hội chiếu hoặc đồng độ, gặp các sao Sát, Hình, Kỵthì dễ giao du với bạn xấu, hoặc bị người dưới quyền thân tín làm liên lụy, gây tổn hại.
  • Thiên Tướng có Vũ Khúc và Phá Quân đồng thời vây chiếu. Chủ về làm ơn mắc oán.

Thiên Tướng có Địa Không, Địa Kiếp, Đại Hao hội chiếu. Chủ về giao du rộng nhưng không có tri kỉ, người dưới quyền tuy nhiều nhưng không đắc lực. Nếu lại gặp thêm các sao Sát, Hình. Thì chủ về bản thân đương số chịu lỗi thay cho người.

Thiên Tướng nếu có nhiều ác diệu, Sát, Hình, Kỵ, Hao đến hội chiếu, thì bạn bè hoặc người dưới quyền phần nhiều đều bất lương. Hoặc vì bạn bè hay người dưới quyền mà bản thân đương số tổn hao rất nhiều.

Sao Thiên Lương đóng cung Nô Bộc

Sao Thiên Lương thủ Cung Nô Bộc, trong tình huống thông thường chủ về bạn bè không nhiều, người dưới quyền cũng không nhiều. Nếu có Thiên Cơ đồng độ mới chủ về có nhiều bạn bè hoặc nhiều người dưới quyền, nhưng vẫn luôn thay đổi người dưới quyền, thay đổi bạn bè.

Thiên Lương nếu được Tả Phù, Hữu Bật, Thiên Khôi, Thiên Việt, hay Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa hội chiếu hoặc đồng độ, mới chủ về được người dưới quyền ủng hộ, trung thành, và kết giao được bạn tốt có trợ lực. Nếu lại được Thiên Đồng đồng độ, thì giao du rộng, có nhiều bạn bè hữu ích, người dưới quyền cũng có nhiều trợ lực.

Thiên Lương nếu có cát tinh hội hợp, mà Thái Dương đồng độ. Thì chủ về giao du được bạn quý, còn chủ về được bạn bè đề bạt, người dưới quyền phần nhiều có tài năng.

Thiên Lương có Kình Dương, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh đồng độ hoặc hội chiếu. Chủ về vì giao du bạn bè mà sinh tai họa. Vì vậy nếu có Thái Dương đồng độ, không có cát tinh mà gặp sát tinh, thì không nên vì bạn bè mà bị cuốn vào vòng tranh chấp, cạnh tranh thế lực.

Thiên Lương có Địa Không, Địa Kiếp đồng độ. Chủ về bạn bè và người dưới quyền không có trợ lực. Lại gặp thêm Đại Hao, Kiếp Sát, Âm Sát, Thiên Nguyệt, thì nên đề phòng bị âm mưu ám hại, hoặc vì thuộc cấp phạm sai lầm mà dẫn đến bản thân đương số bị tổn thất.

Nếu Thiên Lương có Kình Dương, Thiên Hình, Đại Hao đồng độ. Thì chủ về xảy ra kiện tụng với bạn bè hoặc người dưới quyền.

Sao Thất Sát đóng cung Nô Bộc

Thất Sát nhập Cung Nô Bộc. Chủ về kết giao với người thiếu đôn hậu, người dưới quyền cũng nhiều cạnh tranh thị phi. Vì vậy khi gặp sao này, không nên nghe lời nói bậy khích động, phàm việc gì cũng phải thận trọng tra xét, ngay thẳng nghe thì sáng, thiên lệch nghe thì tối.

Thất Sát gặp Tả Phù, Hữu Bật, Thiên Khôi, Thiên Việt, Văn Xương, Văn Khúc, bất quá chỉ chủ về kết giao rộng. Tuy tính chất tranh chấp thị phi được cải thiện phần nào, nhưng vẫn chủ về nên thận trọng. Nếu Thất Sát và Lộc Tồn đồng độ thì lại chủ về bị người bài xích, chèn ép, đấu đá.

  • Thất Sát có Vũ Khúc Hóa Kỵ đồng độ hoặc hội chiếu, gặp sát tinh dù nhẹ, vẫn nên đề phòng vì bạn bè mà liên lụy. Hoặc bị người dưới quyền khuynh loát mà dẫn đến phá sản, hoặc vì thuộc cấp phạm sai lầm mà dẫn đến sự nghiệp thất bại, hoặc như cổ nhân nói “Đầy tớ mạnh ép chủ nhân” (cường nô áp chủ).

Thất Sát thủ Cung Nô Bộc, nếu không có sao cát hóa giải, dù không gặp sát tinh, cũng chủ về bị người đố kị, hãm hại, hoặc bị người dưới quyền phản bội, hoặc bị người dưới quyền trộm cắp, xâm phạm.

Chỉ trường hợp có Tử Vi đồng độ mới có thể hóa giải tính chất không lành của Thất Sát, ngược lại sẽ chủ về có trợ lực. Nhưng nếu không có các sao cát vây chiếu, lại gặp các sao Sát, Kỵ, Hình, Hao thì rốt cuộc cũng bị đục khoét, chiếm đoạt, hay làm liên lụy.

Sao Phá Quân đóng cung Nô Bộc

Sao Phá Quân thủ Cung Nô Bộc, trong tình huống thông thường cũng chủ về vì bạn bè mà phá tán hao tài hoặc vì người dưới quyền phản bội mà dẫn đến sự nghiệp bị tổn thất, tiền bạc phá tán.

Nếu lại gặp sát tinh hội chiếu, thì tình huống chuốc oán hay phản bội càng nặng, có thể gây ra tai họa. Nếu có Kình Dương, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh, Kiếp Sát, Âm Sát, Thiên Hình, Đại Hao hội chiếu. Thì chủ về vì bạn bè mà chuốc họa, phạm pháp. Hoặc bị người dưới quyền âm mưu gây tổn hại, hoặc xâm phạm, trộm cắp, chiếm đoạt. Có cát tinh hóa giải, thì bạn bè và người dưới quyền vẫn bất lợi, chỉ bị liên lụy nhẹ hơn mà thôi.

Phá Quân rất ngại Vũ Khúc đồng độ. Chủ về bạn bè và người dưới quyền khẩu thị tâm phi.

Chỉ có Tử Vi đồng độ là tốt nhất. Chủ về có bạn bè hữu ích và thẳng thắn, người dưới quyền trung thành và ngay thẳng.

chat zalo chat messenger