Tác Động Của Sao Hóa Khoa Tới Các Chủ Tinh
Vũ Khúc là tài tinh chủ về hành động tìm đến với tiền bạc cho nên khi gặp Khoa để hoá với hai đặc điểm:
Nổi danh về ngành nghề, khả năng nào đó rồi qua sự nổi danh ấy mà kiếm tiền.
Nếu tự tay kinh doanh thì đã nổi tiếng với một hai vụ làm ăn rồi từ đấy có đà phát triển.
Nói tóm lại Vũ Khúc – Hoá Khoa kể là cách danh lợi song thâu. Nhưng danh ở Vũ – Khoa khác với danh ở Cơ – Khoa, Thái Dương – Hoá Khoa hay Tử Vi – Hoá Khoa không phải danh trên văn chương, trên thế lực mà là cái danh của thực tế kiếm tiền.
Nếu Vũ – Quyền gặp Liêm – Lộc thường qua danh mà thâu lợi bất ngờ. Đã Vũ Khúc – Hoá Khoa thì đương nhiên Thái Dương đứng với Hoá Kỵ (như người tuổi Giáp tứ Hoá an theo tuần tự: Liêm, Phá, Vũ, Dương). Người xưa thâm ý muốn nhắn bảo phải cẩn thận khi đi vào vận Thái Dương – Hoá Kỵ, danh cao bổng hậu mà người oán ghét ắt tai họa cũng gần chứ không xa.
Vũ Khúc – Tham Lang đồng cung mà Vũ Khúc đứng bên Hoá Khoa cùng lúc lại có cả Linh hay Hoả thì hoạnh phát mau hơn, nhưng cũng lại vì dương danh vô lối mà thất bại chóng hơn.
Các nhà Tử Vi Trung Quốc chủ trương Vũ Khúc – Hoá Khoa nên thành công qua nghề chuyên môn hơn là xông vào doanh thương, đỡ kẻ thù đỡ kẻ ghét.
Vũ Khúc – Hoá Khoa đóng Thê, vợ đoạt quyền chồng nhưng đồng thời cũng phù trợ chồng chứ không đoạt quyền để lăng loàn. Vũ – Khoa đóng Tử Tức không đông con và có nhiều khả năng con hai dòng nhưng con cái đa năng.
Vũ Khúc đơn độc đóng Phụ Mẫu dễ xung khắc với cha mẹ. Nhưng có Hoá Khoa không những bớt khắc mà còn sinh trưởng từ một gia đình uy danh. Cung Tật có Vũ – Khoa gặp Hoả Tinh phải con chừng phôỉ nhiệt, khí quản viêm.
Tác động của Hóa Khoa – Tử Vi
Tử Vi rất hợp với Hoá Khoa, nếu cả Thiên Phủ đứng cùng càng hay vì khi có Thiên Phủ tất nhiêu phải kèm Thiên Tướng như vậy kể là tạm đủ văn võ triều đình.
Ở trường hợp không có Phủ, Tướng mà lại thấy tứ sát Hình, Hao hội tụ thì Hoá Khoa vô dụng. Tuy nhiên về mặt học vấn vẫn xem là con người có học, ít nhiều đến với khoa bảng.
Tử Vi – Hoá Khoa đứng với Xương – Khúc, Khôi – Việt, Long – Phượng thì đa tài, đa nghệ theo đuổi một ngành nghề khả dĩ nổi danh.
Tử Vi – Hoá Khoa có một điểm dở là bạn hữu, phần lớn Tử Vi – Hoá Khoa đi với nhau ở cung Nô thường xấu. Ví dụ Tử Vi – Hoá Khoa đóng Tí, cung Nô Bộc có Thái Âm ở Tỵ đứng cùng Hoá Kỵ: không bao giờ được sự đắc lực của thủ hạ hay bạn bè.
Cung Nô cũng gây ảnh hưởng luôn với cung Huynh Đệ. Như Vậy Tử – Khoa không có thể cộng tác với ai, cộng tác chỉ bị thiệt. Trường hợp sinh ban đêm hay Thái Âm đắc địa sẽ giảm những khó khăn trên. Ví dụ số nữ mà Tử Vi đóng Ngọ cung, Thái Âm ở Hợi đứng với Hoá Kỵ mà lại sinh ban đêm thì thuộc hạ bằng hữu thật hữu dụng.
Tử Vi – Hoá Khoa tính tình khoan hậu, nhưng tính này lại rất dễ biến thành chủ quan, yêu ghét giận mừng một cách chủ quan khiến cho lòng khoan hậu vì thiên tư mà đâm phiền, có khi lại thành đố kỵ.
Cho nên Tử – Khoa nếu vào vận Hình Sát sẽ đưa đến tình trạng hoài tài bất ngộ, vào vận hanh thông lại dễ bị đố kỵ. Thà đừng Hoá Khoa cuộc sống yên hơn.
Các cung lục thân mà Tử Vi – Hoá Khoa đều kể làm tốt. Ví dụ cung Huynh Đệ có Tử – Khoa: anh em ruột thịt nâng đỡ nhau, vào Phụ Mẫu: được cha mẹ che chở, vào Thê cung: dễ gặp vợ hơn tuổi nhưng đảm đang, vào cung Nô Bộc mà thấy cả văn tinh thì tài năng kém thuộc hạ, cần phải biết sử dụng khéo tinh tế này mới hay. Tử – Khoa đóng Tật Ách phải săn sóc hệ thống bài tiết nhất là nhiếp hộ tuyến.
Tác động của Hóa Khoa – Thái Dương
Thái Dương bản chất là tán phát nên không thật thoải mái với Hoá Khoa. Hoá Khoa làm tăng thêm tính tán phát đó cho nên dễ thành ra tiếng nhiều mà miếng ít. Bị người chú ý quá mức dù là ngưỡng vọng thì cũng phiền. Như quẻ dịch gọi bằng “Khang long hữu hối” là thế.
Thái Dương miếu địa đứng với Hoá Khoa không bằng đứng với Lộc, Quyền trên thực tế thâu hoạch tốt. Thái Dương – Hoá Khoa cũng cần bách quan tề tựu mới thành đại sự, nếu chỉ gặp Sát Hình là hư danh hư lợi thôi, có khi còn bị thiên hạ lợi dụng nữa.
Nói về bách quan tề tựu cũng có hai hình thức khác biệt. Thái Dương – Hoá Khoa: nhất định là nổi danh, người đời chú ý từ cử chỉ đến lời nói nếu được văn tình Xương – Khúc chế giảm tục khí ngôn hành văn nhã, thiếu văn tinh sẽ thô lỗ, ấu tả cho người đời đàm tiếu. Thái Dương hãm địa hoặc bị Tuần, Triệt sự ấu tả đậm nét hơn.
Có Xương Khúc rồi thêm Lộc Tồn càng đẹp. Cách Dương – Lương – Xương – Lộc đóng vào Mão tốt nhất, trường hợp này Hoá Khoa sẽ đắc lực hơn Quyền – Lộc nếu vào học thuật văn chương, nhưng lại không thành giầu có.
Thái Dương – Hoá Khoa chỉ thành phú cách nếu xung chiếu bởi Hoá Quyền và cung Quan Lộc có Hoá Lộc. Được Thiên Mã, Tả – Hữu sẽ rất sớm thành công nếu như không bị Hoả – Linh, Không – Kiếp.
Dương – Khoa có Cự Môn đứng cùng hay chiếu, ăn nói lý luận cứng cỏi vào ngành ngoại giao hay pháp luật hợp cách. Thái Dương – Hoá Khoa ở hãm cung mà bị Không – Kiếp sẽ vì danh vọng hão mà mang họa vào thân.
Dương – Khoa đóng cung lục thân đều hay trừ cung Nô Bộc. Dương – Khoa đóng Huynh Đệ, Phu Thê, Phụ Mẫu: những người thân ấy đều có thanh vọng. Đóng vào Nô Bộc: thuộc hạ sẽ lợi dụng danh mình hoặc tựa vào mình và vượt trội lên hơn mình.
Dương – Khoa vào lục thân cung nếu bị Đà La, Không – Kiếp lại thành ra bị lục thân bóc lột. Thái Dương – Hoá Khoa đóng Tật Ách: dễ bị bệnh ở can (gan), khí nhiệt uất bốc lên mặt làm thành bệnh mắt.
Tác động của Hóa Khoa – Thiên Cơ
Thiên Cơ bản tính phù động, đứng với Hoá Khoa tính năng động ấy sẽ thành kế hoạch, giỏi về giao tế, thuyết phục thiên hạ. Khoa đi với Cơ tốt hơn Lộc đi với Cơ.
Khoa – Cơ luôn luôn đeo đẳng một điểm phiền là gặp Hoá Kỵ đứng với Cự Môn (Người tuổi Đinh Tứ Hoá an theo thứ tự Âm, Đồng, Cơ, Cự).
Cự – Kỵ đương nhiên không tuyệt đối thành cặp hung thần, nếu không bị hung sát tinh khác. Hễ có hung sát tinh hội tụ để giúp Cự – Kỵ lập tức sinh phiền nhiễu do vạ miệng, do những lời phê bình sắc bén mà gây thù oán, ảnh hưởng cho công việc làm.
Thiên Cơ – Hoá Khoa càng thông tuệ. Có điều Thiên Cơ đa học nhưng lại bất chuyên. Bởi vậy Cơ – Khoa ít hy vọng thành một chuyên gia thật giỏi. Cơ – Khoa sẽ chịu ảnh hưởng nhiều từ Cự – Kỵ khi vận đi xuống. Bởi thế Cơ – Khoa lúc đắc thời đắc thế cần thận trọng.
Ông Vương Đình Chi đưa ra lập luận sau đây: “Thiên Cơ đóng Mệnh rất ngại sao Thiên Lương đóng Phúc Đức (đó là cách Cự – Cơ Mão Dậu đấy) sẽ đưa đến tình trạng tự thị thông minh mà rơi vào lầm lẫn to tát, khiến cho khả năng Quyền thành hư nguỵ, hoặc ra con người khinh bạc khó thành đại sự”.
Cơ – Khoa đóng Huynh Đệ, anh em bất hoà thường trực, hoặc bằng mặt mà chẳng bằng lòng, anh em cộng tác với nhau mà mỗi người lại tính toán riêng. Thà không hoá Khoa còn hơn. Có Hoá Khoa vào Huynh Đệ không chỉ ảnh hưởng đến anh em mà còn ảnh hưởng đến cả bè bạn. Có Hoá Khoa tóm lại khó lòng gặp người cộng tác trung thực.
Cung Tật Ách thấy Cơ – Khoa can Hỏa vượng thịnh, khó ngủ vì tâm thận bất giao do sự hun nóng của lá gan đưa đến thần kinh suy nhược.
Tác động của Hóa Khoa – Văn Xương
Xương – Khúc tuy là phụ tinh nhưng cũng dự phần vào chuyện an Tứ Hoá. Một phụ tinh nữa dự phần Tứ Hoá là Hữu Bật. Xương Khúc chủ văn chương nên gặp Khoá kể như hữu lý.
Thời xưa do khoa cử mà nên công danh (dĩ nhiên cũng không thiếu gì người ta dị lộ mà công danh). Bởi vậy khi chuyển vào số thì chủ trương Mệnh hay Thê cung mà có Xương – Khoa rất đáng mừng. Vận gặp Xương Khúc – Hoá Khoa cũng thuận lợi cho công danh.
Đời bây giờ Xương – Khoa không còn sức mạnh để đạt công danh như ngày trước, chỉ xem là dành được phần khoa bảng thôi.
Văn Xương chủ về văn thư khế ước. Viết sách nổi tiếng, hoặc có văn bằng mà thành danh giả. Xương – Khoa – Lộc đi cùng khả dĩ nhờ một khế ước mà có tiền.
Xương – Khoa cần có thêm Tấu Thư mới dễ nêu cao danh vọng. Xương – Khoa cũng là dấu báo của một tin vui. Xương – Khoa là con người giỏi thích ứng với cuộc sống, yêu đời.
Xương – Khoa vào vận hạn hay các cung lục thân mà gặp nhiều hung sát tinh thì lại không tiếp tục mang tính chất mừng vui hỉ khánh nữa mà có thể tang lễ. Tại sao? Vì Xương – Khoa chủ về lễ nhạc kèn trống tế lễ.
Thê cung thấy Xương – Khoa đi cùng Đào Hoa vào cổ thời là con người ưa lấy vợ lẽ thiếp hầu, ở thời này thường xẩy ra những cuộc tình ngoại hôn. Xương – Khoa vào cung Tật Ách mà có Hoả hay Linh thì bệnh tật để lại vết sẹo, như giải phẫu hoặc nám da.
Tác động của Hóa Khoa – Thiên Lương
Thiên Lương chủ quý nên cần gặp Hoá Khoa để mà danh dự. Cơ – Lương đi cặp đứng cùng Hoá Khoa là con người quản trị giỏi. Thiên Lương – Hoá Lộc dễ được người tin cậy.
Cách Cơ – Cự – Đồng – Lương được Hoá Khoa: là một cán bộ hành chánh cừ khôi hoặc là loại chuyên viên có hạng; cao thấp còn tuỳ sao Bản Mệnh.
Lương – Khoa trên tính tình là con người tự ái, chuộng nghĩa khinh tài. Lương – Khoa mà gặp Văn Khúc, Hoá Kỵ đồi xung thì sức lực bị giảm hẳn, gây thù chuốc oán vì cái tính bới lông tìm vết, xét nét tiểu tiết nhỏ nhặt.
Lương – Khoa có Tấu Thư học vào ngành viết diễn văn, làm đổng lý phụ tá đắc lực. Lương – Khoa đi cùng Thiên Đức, Giải thần học thuốc dễ thành công.
Thiên Lương, Thiên Đồng hễ có Hoá Khoa thì không sợ thấy Thiên Mã, không có Khoa chỉ có Thiên Mã thôi thì Đồng Lương sẽ ra lãng đãng, bông lông.
Thiên Lương, Thiên Đồng hễ có Thiên Mã thành con người giao du rộng rãi “tứ hải văn danh”. Ngay cả Thiên Lương Tỵ/ Hợi mà được Khoa cũng giảm bớt chất phiêu bồng, thêm Khôi – Việt nữa thì qua cơn phiêu lãng, trải nhiều kinh hiểm khả dĩ nên công. Lương Tỵ/ Hợi vào Thê cung: dù có Khoa cũng vẫn không đẹp.
Lương – Khoa đóng Phụ Mẫu hay Tử Tức đều tốt. Được ân đức cha mẹ và con cái thành đạt. Thiên Lương đóng Tật Ách gặp Không – Kiếp dễ bị tê thấp đau nhức, có Hoá Khoa càng nặng.
Nữ Mệnh Thiên Lương – Hoá Khoa đóng Tật Ách gặp Linh – Hoả bị lưu sản, bệnh lộn xộn đường kinh. Từ trước tới giờ người ta nghĩ Hoá Khoa vào Tật Ách là giải hết bệnh hoạn điều này qua kinh nghiệm không hoàn toàn đúng.
Tác động của Hóa Khoa – Thái Âm
Thái Âm là tài tinh, khi đã hoá thành Khoa khiến cho tài nguyên thuận lợi. Thái Âm – Hoá Khoa vào kinh doanh hợp cách, dễ tạo thành danh cho công việc kinh doanh mà sinh lợi. Ví dụ một tiệm ăn nổi tiếng, tiệm quần áo nổi tiếng…
Thái Âm khác với Thái Dương ở điểm: Thái Dương trải ánh sáng đi, tán quang trong khi Thái Âm lại liễm ánh sáng tới. Bởi thế nên sự thành danh cũng khác với thành danh của Thái Dương. Thái Dương mở rộng ra quần chúng, Thái Âm lại cần hạn hẹp với lợi ích bản thân.
Thái Âm – Hoá Khoa tạo tính lạc quan, dễ sống, thích hưởng thụ, Thái Âm – Hoá
Khoa đóng Phúc Đức: niệm sống thoải mái với hưởng thụ nhân sinh. Do đó mới có luận cứ rằng: Âm – Khoa đóng Mệnh đắc địa không hay bằng đóng Phúc Đức về mặt nhàn nhã hưởng thụ. Vì Âm – Khoa ở Mệnh thì cung Phúc Đức có Cự Môn thường đưa đến tình trạng đam tâm thái quá, dễ mệt mỏi tinh thần.
Âm – Khoa vào Tài Bạch cung thì cung Mệnh sẽ là sao Thiên Lương thủ. Tiền bạc không do tự tay mình tung hoành mà nhờ thanh vọng chức tước sẵn có để hướng bổng lộc. Thái Âm đóng hãm cung mà có Hoá Khoa càng vô duyên với những vụ đầu tư, hãy theo đuổi chức nghiệp thì hơn.
Thái Âm hãm đứng với Hoá Khoa ở Tật Ách chủ về bệnh âm hư. Âm – Khoa đắc địa vào cung lục thân Phụ Mẫu, Tử Tức xem là tốt đẹp kể luôn cả Thê cung, nhưng nếu lạc hãm thì ngược lại.
Tác động của Hóa Khoa – Văn Khúc
Xương hay Khúc đều là văn tinh cho nên đương nhiên cần Hoá Khoa. Thời xưa cho rằng Văn Khúc không bằng Văn Xương vì Văn Khúc mang khuynh hướng dị lộ công danh. Văn Khúc – Hoá Khoa cùng với Ân Quang, Thiên Quý tốt hơn Văn Khúc chỉ với một mình Hoá Khoa, như vậy mới thành cách “Ân Khoa”. Cách này dễ được đề bạt vào chức vị.
Văn Khúc sao có tài ăn nói nếu gặp Cự Môn, Hoá Lộc thì nói ra tiền, hoặc vì giỏi ngôn từ mà được người đời tin cậy. Văn Khúc cũng chủ về thụât số đứng với Khoa và Cơ – Âm: học về thuật số khả dĩ nổi danh.
Văn Khúc – Hoá Khoa chịu ảnh hưởng nhiều từ các sao mà chúng đứng cùng. Ví dụ Tử Vi, Thất Sát không ưa Văn Khúc, Hoá Khoa lắm. Tử – Sát chủ về quyền lực, đôi khi còn làm trở ngại cho khả năng quyết đoán.
Vũ Khúc có thể cần Văn Khúc thôi, nhưng không cần Văn Khúc với Hoá Khoa vì Khoa chen vào tạo thành mâu thuẫn đáng lẽ cần tham, quyết liệt thì là dùng dằng mà hỏng việc. Nhưng Thiên Cơ, Thiên Lương thì tuyệt đối cần Văn Khúc, Hoá Khoa. Cơ – Lương có được Khúc, Khoa: thanh vọng tăng lên. Nhưng đồng thời cũng mang một khuyết điểm là nhiều lý thuyết hơn hành động.
Cự Môn – Hoá Lộc đứng với Văn Khúc – Hóa Khoa: tài ăn nói hơn người với điều kiện đừng có Sát Kỵ tinh. Gặp Sát Kỵ sẽ bị họa do ngộ từ. So Xương với Khúc thì Văn Xương thiên về tư tưởng, Văn Khúc ngả về hành động. Văn Xương khi suy tư rất sáng, nhưng vào hành động lại vụng về, trong khi Văn Khúc suy tính không tinh sảo, nhưng hành động đắc lực.
Khúc – Khoa vào cung Phúc Đức: ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc đời. Khúc – Khoa đóng Mệnh mà Thê cung lại thấy Văn Xương, Hoá Kỵ thì trước khi có vợ đã có thiếp. Nữ Mệnh mà như thế lúc lấy chồng không còn là con gái nữa. Nó không rõ rệt như Tham – Đào nhưng là ngấm ngầm.
Tác động của Hóa Khoa – Thiên Phủ
Thiên Phủ ưa nhất Lộc. Khoa đối với Phủ chi là thứ yếu. Thiên Phủ thiếu Lộc mà gặp cả sát sinh như Triệt, Tuần, Linh, Hoả, Không, Kiếp sách gọi bằng : “Phú khố không lộ” (kho thủng, kho không cửa ngõ). Khoa vào chẳng giúp ích được gì.
Thiên Phủ – Hoá Khoa không bị sát tinh là người quản thủ tiền bạc giỏi. Thiên Phủ – Hoá Khoa gặp sát tinh nên học một nghề cho tinh để vinh thân.
Phủ – Khoa thành một cách đặc biệt nếu gặp Thiên Riêu đứng bên. Hễ có Riêu thì không sợ các sát tinh. Thêm sát tinh lại càng tốt, biến ra con người nhiều mưu chước kinh doanh tài chánh, hoàn cảnh càng biến hoá càng lên cao. Phủ – Khoa – Riêu không sát tinh thì chỉ là người gây được tín nhiệm của thiên hạ nhưng coi chừng tư tâm người này quá lớn.
Tử Vi – Thiên Phủ đồng cung hoặc đối xung thì Thiên Phủ – Hoá Khoa kể làm tốt nhất là với người tuổi Nhâm vì còn hội thêm với Quyền Lộc. Phủ – Khoa trong trường hợp trên đem lại khả năng lãnh đạo và được người tin cậy miễn đừng thấy Hoá Kỵ đứng bên Vũ Khúc. Có Vũ – Kỵ biến ra lý tưởng quá mức mà đưa đến không tưởng.
Phủ – Khoa đóng lục thân, có thể tin cậy trong mọi công việc làm ăn. Ví dụ vào cung Huynh Đệ hãy cộng tác với anh em ruột thịt. Phủ – Khoa đóng Thê cung hay Phu cung luận đoán phức tạp hơn. Vì Phủ ở Thê thì Mệnh là Tham Lang. Phủ – Khoa như vậy người phối ngẫu sẽ chỉ phúc hậu với điều kiện hơn tuổi (vợ già hay chồng già). Phủ – Khoa gặp Sát tinh đóng Tật Ách thường bị bệnh ở bộ phận tiêu hoá (dạ dày, ruột).